Đón Xuân mới này, gia đình tôi được nhiều bạn bè tặng trà đặc sản. Những gói trà Thái Nguyên hút chân không đựng trong hộp gỗ, hộp giấy, đặt trên lụa đỏ… thật sang trọng. Nhưng, điều khiến tôi ngạc nhiên là hầu hết sản phẩm trà tôi được tặng đều là trà “xưa”. Dường như người thưởng trà truyền thống đang tăng lên? Dường như cây chè trung du đang hồi sinh? Tôi đã đến vùng chè Sông Cầu, nơi có diện tích chè lớn của tỉnh để tìm câu trả lời.
Thời các cụ, chè trung du (chè truyền thống, chè bản địa) được gọi giản dị là “chè ta”. Cây chè hoài thai từ hạt, rễ cọc nhọn hoắt cắm sâu vào lòng đất; lá chè giòn ngọt pha chát nhẹ; búp chè mập mạp lăn mình qua lửa, chịu xoa, chịu vò trở nên cứng cỏi, bung nở hương sắc trong nước bỏng.
Chắc hẳn, gọi “chè ta” là các cụ phân biệt với “chè tây” khi uống thường thêm chút đường phèn, uống bằng cốc thủy tinh như ở bên “tây” chăng? Chỉ bằng hai từ “chè ta”, ông cha muốn xác quyết vị trí cây chè của người Việt và phù hợp nhất với người Việt?
Ngược dòng thời gian, không phải “bỗng dưng” mà năm 1962, nhà nước cho thành lập Nông trường quốc doanh Sông Cầu, nông trường lớn nhất toàn quốc khi đó với gần 2.000ha đất xen kẽ dân cư của 17 xóm thuộc 5 xã (của huyện Đồng Hỷ và Võ Nhai) để chủ yếu trồng chè. Chắc hẳn đó phải là kết quả của công trình nghiên cứu về chất đất, khí hậu, giống cây, giá trị kinh tế… trước khi người công nhân bổ cuốc gieo hạt “chè ta” đầu tiên xuống mảnh đất trung du này.
Cây chè bén rễ, trưởng thành, ra hoa, quả, lại nảy mầm, thành cây, nuôi sống bao thế hệ. Họ là người bản xứ Thái Nguyên hay từ Thái Bình, Nam Định, Hưng Yên, Hải Phòng đến, dần trở thành công dân Sông Cầu. Nay dù không còn nông trường, không còn nhà máy chè, nhưng con cháu người làm nông trường năm xưa vẫn lấy cây chè làm “vi bản”, buồn vui, sống chết với chè.
Hăm hở dẫn tôi leo đồi ngắm vùng chè đẹp như tranh vẽ, anh Đức Trọng - Tổ trưởng Tổ hợp tác trà hữu cơ thị trấn Sông Cầu, Trưởng làng nghề chè xóm 9 - chỉ cho tôi nhận diện những cây chè da thẫm sậm, gốc bằng bắp chân: “Rặng chè ta này trồng từ năm 1964. Nhìn sức vóc thì thấy, dù đã “lên lão” nhưng cây còn sung sức lắm, lá chè rộng bản, xanh đậm, răng cưa rõ, búp to, chắc, mập. Đặc biệt, hoa chè cánh dày, nhiều phấn, thơm phức, mật đầy ứ”.
Hái đưa tôi búp chè mỡn màng, anh Trọng bảo: “Cô nhai búp chè ta này rồi nhai sang “anh” chè lai xem, khác hẳn phải không ạ? Chè ta đậm ngọt, thơm ngát vì có hàm lượng đường, axitamin, vitamin cao. Chè ta còn có dòng chè tím rất quý hiếm, có thể chữa bệnh hiểm nghèo…”.
Nhìn anh Trọng say sưa nói về cây chè trung du truyền thống, tôi biết anh yêu chè, yêu nghề mẹ cha để lại lắm. Sinh năm 1979, tuổi thơ của anh là những ngày chơi đùa bên gốc chè, nhìn ánh điện nhà máy ngóng bố mẹ tan ca. Trọng và vợ anh sau này cũng trở thành công nhân nhà máy chè. Trước năm 2008, Nhà máy chè Sông Cầu vẫn chạy 3 dây chuyền: Chè xanh, chè Nhật, chè đen. Công nhân lương 6 triệu đồng/tháng. Từ năm 2009, thị trường chè xuất khẩu gặp khó khăn, cũng là thời điểm cây chè Sông Cầu đến tuổi cỗi, nhà nước khuyến khích chuyển đổi cơ cấu cây trồng, đưa các giống chè mới vào.
Anh Trọng trầm ngâm: Quả thực, chế biến chè ta khó hơn chè lai. 4 công đoạn gồm: Thu hái bảo quản, diệt men, tạo hình, làm khô đều phải chuẩn, nhất là khâu “ốp chè” (diệt men), nếu làm sai kỹ thuật thì nước trà sẽ đỏ, độ ngái nhiều.
Thế nên khi chè cành giống mới xuất hiện với nhiều ưu điểm: Nước đẹp, mùi thơm, năng suất cao, nhanh cho thu hoạch, mã chè đẹp, chế biến dễ... nhiều người phá chè ta trồng chè mới. Hiện nay ở vùng chè Sông Cầu, diện tích chè ta còn khoảng 40% (vùng chè đặc sản Tân Cương gồm 6 xã diện tích này chỉ còn 20%).
Dù bị đối xử “lạnh nhạt”, nhưng chè ta vẫn bền bỉ chứng minh giá trị của mình. Thứ nước “cắm tăm”, ngọt hậu, thơm hương cốm có “dòng” khách hàng riêng, hợp vị những người thưởng trà chậm rãi, nhẩn nha suy ngẫm chuyện đời. Hơn nữa, do có nhiều loại men quý, búp mập, cứng cáp nên chè ta là lựa chọn khôn ngoan để chế biến các loại chè xanh, chè Nhật dẹt, chè đen, chè đinh, bột matcha, kẹo trà. Các sản phẩm dành cho giới trẻ như trà lipton, trà sữa; những cân chè đặc sản bán tiền triệu và thương hiệu Thái Nguyên Đệ nhất Danh trà cũng từ chè ta mà có
Đón Xuân mới này, gia đình tôi được nhiều bạn bè tặng trà đặc sản. Những gói trà Thái Nguyên hút chân không đựng trong hộp gỗ, hộp giấy, đặt trên lụa đỏ… thật sang trọng. Nhưng, điều khiến tôi ngạc nhiên là hầu hết sản phẩm trà tôi được tặng đều là trà “xưa”. Dường như người thưởng trà truyền thống đang tăng lên?
Sau 02 năm triển khai dự án, người làm chè Thái Nguyên đã giảm dần sử dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật có nguồn gốc hóa học; bước đầu hình thành chuỗi liên kết giữa người sản xuất, chế biến và kinh doanh chè.
Nhằm nâng cao chất lượng các sản phẩm từ cây chè, những năm gần đây, tỉnh Thái Nguyên đã đẩy mạnh đầu tư cho các địa phương sản xuất chè tập trung, theo hướng an toàn, áp dụng quy trình VietGAP (thực hành sản xuất nông nghiệp tốt theo tiêu chuẩn Việt Nam). Từ đó, đã tạo ra các sản phẩm có chất lượng cao, an toàn, đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước, dần chinh phục thị trường quốc tế.
Phát huy lợi thế về khí hậu, thổ nhưỡng đặc thù, những năm gần đây tỉnh Thái Nguyên đã thực hiện nhiều giải pháp nâng cao giá trị gia tăng, phát triển thương hiệu, trở thành địa phương dẫn đầu cả nước về diện tích, năng suất, sản lượng, giá trị thu nhập trên một đơn vị diện tích, khẳng định vị thế “Đệ nhất danh chè”. Song, với những đồi chè đẹp, người dân thân thiện, du lịch trải nghiệm vùng chè chưa tương xứng với tiềm năng lợi thế vốn có.